Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Hình Ảnh Cây Bần trong Ca Dao Nam Bộ

Ca dao Nam bộ là một bộ phận có ý nghĩa quan trọng trong ca dao người Việt nói riêng và Văn học dân gian nói chung. Ca dao thấm nhuần trong tâm hồn con người bằng cái tình quê dung dị, hiền hòa. Với ngôn ngữ dân gian của xứ sở “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh”, người dân Nam bộ đã góp nhặt những tiếng nói ân tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long.

Nổi bật ở vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long là sự có mặt của hình ảnh cây bần, một loại cây rất gần gũi với bà con Nam bộ. Cây bần là loại cây đặc thù ở vùng đất bồi lắng phù sa này. Cây bần còn gọi là cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh rạch hay xen lẫn trong những đám lá dừa nước. Là loại cây sống trong môi trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Cây bần có chức năng giữ đất rất tốt, gỗ chủ yếu dùng làm chất đốt. Hoa bần màu trắng pha chút hồng phấn, rất đẹp, cho trái. Trái bần có vị chua của phần thịt, chát của phần hạt rất thú vị. Đây cũng là món ăn “độc quyền” của bà con Nam bộ:
Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm
Bà con Nam bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái. Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này.
Xuất phát từ cái tên nghe quá đói khổ- “bần” mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó:
Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân ?
Từ kiếp bình sinh “thiếu tứ bề” ấy mà tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số phận hẩm hiu của người phụ nữ:
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
Hình ảnh “sóng dập gió dồi” thật hay vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi. Vì vậy nước tràn ngập lung bàu làm cho trái bần trôi dạt theo dòng nước mà không biết sẽ về đâu.
Là thế đấy, cây bần mang số kiếp thật hẩm hiu, bị phũ phàng:
Cây bần kia hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm
Nhiều lúc cây bần trở nên mạt hạn, tầm thường trong thể hiện của người bình dân:
Cảm thương ô dước, bời lời
Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần
Cây bần còn là cái để người ta so sánh sự sang hèn:
Không thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước bần thiếu chi
Tuy nhiên, người Nam bộ không chỉ nhìn cây bần dưới con mắt bi quan như thế. Bằng cái nhìn hào sảng và lối sống phóng khoáng, lạc quan, cây bần còn là điểm tựa cho tình yêu đôi lứa:
Làm thơ anh dán đọt bần
Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau
Hy vọng để rồi khi tình duyên bị ngăn trở, bần lại là nơi cha mẹ phạt vạ con cái:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rũi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Cái tình của người dân Nam bộ là thế, yêu “xả láng”, đánh chết cũng thương. Cây bần còn là biểu vật của sự nhớ thương, là mật hiệu của tình yêu:
Chiều chiều xuống bến ba lần
Trông em không thấy thấy bần xơ rơ
Hay
Lẻ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ
Nhưng nhiều lúc những cô Hai, anh Sáu lại nghi ngại, đặt vấn đề về chuyện cưới xin:
Neo ghe vô dựa gốc bần
Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không
Hay khi đã không thành duyên nợ thì:
Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Không chỉ vu vơ trách móc thế thôi, với cách nói như tát nước, người Nam bộ cũng mắng nhiếc:
Mồ cha thằng đốn cây bần
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Nhưng đôi lúc cũng cảm thông:
Bần gie đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên
Dựa vào trường liên tưởng sự vật, người dân Nam bộ đã thổi vào cây bần một luồng sinh khí có sức sống đến kỳ lạ, nó hiển hiện dạt dào trong lòng người đọc tạo nên giá trị biểu đạt phong phú. Từ đó nó tạo nên cảm hứng thẩm mỹ cho người thưởng thức.
Ngày nay, cây bần vẫn còn chiếm vị trí khá lớn bên dòng sông nước Nam bộ. Nó có một ý nghĩa lớn trong tâm hồn của người dân nơi đây. Trải bao thăng trầm của thiên nhiên, nhu cầu kinh tế, và cả tác động của con người, cây bần vẫn sừng sững trong tâm thức của người dân, gợi nhớ về một thời khai hoang vùng đất “vượn hú chim kêu” của ông cha – giúp chúng ta hiểu thêm về nền văn minh miệt vườn, nền văn hóa sông nước trù phú và ngọt ngào như lời ru từ lòng mẹ, để chúng ta sẽ thấy mình có trách nhiệm hơn với quê hương.
Bướm đeo dưới dạ cây bần
Làm sao kết nghĩa châu trần với nhau
Bướm đeo dưới dạ cây bần (2)
Muốn phân nhân ngãi, lại gần sẽ phân
Bướm bay dưới dạ cây bần,
Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau.
Bởi anh đành đoạn, Đốn ngọn cây bần
Thương anh em phải sớm hôm
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm,
Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em đành gả
Em chắp tay: khoan đã chưa tới căn phần
Phụ mẫu em nói: em bất chấp tôn giáo hóa,
Đem treo cây bần cho kiến nó tha
Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả
Em chấp tay: khoan đã, chưa tới duyên phần
Phụ mẫu nói em bất tôn giáo hóa
Em trèo lên cây bần cho kiến nó bu
Cám thương ô đước bời lời,
Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần.
Cây bần kia hỡi cây bần,
Lá xanh bông thắm lại gần không thơm
Cây bần ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.
Cây bần de đom đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu, oán trời sao nên.
Cây bần soi bóng ghe nghèo
Qua sông gặp gió, em chèo giùm anh
Chặt cây dừa
Chừa cây mận
Cây bần thận
Cây bí đao
Cây nào cao
Cây nào thấp
Cây nào rập
Cây nào rà
Cây nào rách
Cây nào rời
Mồng tơi chín đỏ
Con thỏ nhảy qua
Bà già hứ hự
Bùm xùm xoạ
Rút ra tay này
Chiều chiều ngó ngọn cây bần
Thấy ba ông Địa ở trần nấu cơm
Ông kia xách dĩa lại đơm
Ông nọ ứ hự nồi cơm mới vần
Mới vần mặc kệ mới vần
Bây giờ đói bụng xúc lần ra ăn.
Mồ cha đứa đốn cây bần,
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm.
Mồ cha ai (Trách ai nỡ) đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Trách ai nỡ đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm!
Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi cưới vợ, cho sóng thần nhận ghe.
Trèo lên chót vót cây bần,
Vái anh đi cưới vợ cho sóng thần nhận ghe.

0 nhận xét:

Bài Viết Cùng Chủ Đề

© 2015 Hai Lúa Miền Tây | Design by Tùng Phạm
| Design by Tùng Phạm.