Là một bộ phận trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam. Đồng dao bao gồm những bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em…
Các bài đồng dao thường gắn liền với các trò chơi. Đa phần đồng dao ở các vùng miền đều khá giống nhau về cấu trúc nhóm từ và vần điệu. Đồng dao cũng có những dị bản do sắc thái riêng của từng địa phương, thể hiện dễ thấy nhất qua hình thức diễn đạt ngôn ngữ (phương ngữ) và nội dung đôi khi được cải biên cho thích nghi, phù hợp với sinh vật, cảnh quan của địa phương đó. Nhưng đồng dao bao giờ cũng nhất quán về bản chất (vui chơi) và đối tượng phục vụ (trẻ em). Đồng dao ở khu vực Nam bộ có xuất xứ từ đồng dao chung của cả nước, chỉ biến tấu chút ít như đã kể trên. Ví dụ bài đồng dao “Kéo cưa”:
Ở miền Nam:
Kéo cưa kéo kít
Làm ít ăn nhiều
Đụng đâu ngủ đó
Nỡ lấy mất cưa
Lấy gì mà kéo
Ở miền Bắc:
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú mẹ.
Trong đa phần trường hợp, đồng dao với trò chơi dân gian luôn gắn bó với nhau như tay với chân, như bóng với hình, thể hiện qua các trò chơi vận động (dung dăng dung dẻ, giật khăng, đánh đáo), trò chơi học tập (đánh chuyền, đánh ô), trò chơi mô phỏng (đi chợ, làm nhà), trò chơi sáng tạo (xếp thuyền, đánh trận, chơi diều).
Đối với trẻ em, đồng dao dạy cho các em sự quan sát, phù hợp với lứa tuổi cùng sự phát triển tư duy ban đầu của các em. Các trò chơi của đồng dao cung cấp cho trẻ em kiến thức dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tuệ của người tham gia. Trong bài “Vè nói ngược” có rất nhiều hình ảnh tương phản, gợi sự tò mò, bao trùm lên nhiều sự việc, kích thích người nghe tuởng tượng với sự thích thú:
“Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè nói ngược/ Ngựa đua dưới nước/ Tàu chạy trên bờ/ Lên núi đặt lờ/ Xuống sông bửa củi / Gà cồ hay ủi/ Heo nái hay bươi/ Nước kém ba mươi / Mùng mười nước dậy /Ghe không thì đẩy/ Ghe khẳm thì chèo/ Mấy chú nhà nghèo /Cho vay bạc nợ/ Mấy chú nhà giàu / Thiếu trước hụt sau/ Đòn sóc bửa cau/ Dao bầu gánh lúa / May áo bằng búa /Giả gạo bằng kim / Đêm rằm trời tối/ Mùng một sáng trăng…”.
Một trong những bài đồng dao nổi tiếng vào thế kỷ trước vẫn còn in đậm trong ký ức của nhiều thế hệ, đó là bài “Tập tầm vông”. Hầu như, đa phần các thiếu nhi, thiếu niên ở các cùng nông thôn và cận thành thị trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đều biết:
“ Tập tầm vông / Chị có chồng /Em ở giá/ Chị ăn cá/ Em húp xuơng/ Chị nằm giường / Em nằm đất /Chị húp mật/ Em nếm gai / Chị ăn mày/ Em xách bị…”.
Thao tác của trò chơi nầy là hai người chơi ngồi đối mặt nhau, vừa hát vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau, hoặc đập thẳng hoặc đập chéo, hoặc một cao một thấp, hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau.
Các em thiếu nhi thường hát chung đồng dao rất nhịp nhàng trong lúc tổ chức trò chơi. Nhiều khi những bài đồng dao được hát và các trò chơi luôn thay đổi chứ không theo một chủ đề nhất định. Có nghĩa “thích gì chơi nấy”, gặp đâu nói đó, chỉ cốt cho vần vè, có khi nội dung bài rời rạc, lẩn quẩn, câu nầy chỏi câu kia, chuyện kia bắt quàng sang chuyện nọ. Nhưng “vui là chủ yếu” Ví như :
“Ông Nỉnh ông Ninh / Ông ra đầu đình/ Ông gặp ông Nang/ Ông Nảng ông Nang/ Ông ra đầu làng/ Ông gặp ông Ninh/ Ông Nỉnh ông…” (thường gặp ở phía Bắc)
Hay:
“ Kỳ nhông là ông kỳ đà/ Kỳ đà là cha cắc ké/ Cắc ké là mẹ kỳ nhông/ Kỳ nhông là…”(Thường gặp ở Nam bộ).
Trong sinh hoạt dã ngoại, hội hè, trẻ em luôn thích thú với đồng dao và trò chơi dân gian vì nó phù hợp với tuổi của các em, không đòi hỏi các em tư duy như người lớn. Đồng dao và trò chơi dân gian tác động vào tâm lý, tình cảm của trẻ qua ấn tượng sâu sắc về không gian, hình thể, sự vật chứ không phải bằng lý luận và phép quy chiếu của phương pháp truyền đạt cổ điển, áp đặt.
“Thả đỉa ba ba” là một trò chơi thường thấy của trẻ em ở những vùng đồng bằng sông nước. Trò chơi thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng ngập nước. Ở dưới nước có đỉa. Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bám được.
Trước hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống nào đó) ước lệ là sông nước. Đầu tiên một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào vai các bạn:
Thả đỉa / ba ba
Chớ bắt / đàn bà
Tha tội / đàn ông
Cơm trắng / gạo trắng
Gạo thuyền như nước
Đổ mắm / đổ muối
Đổ chuối / hạt tiêu
Đổ niêu / nước chè
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy…. chịu
Đến chữ “chịu” trúng em nào thì em ấy xuống sông làm “đỉa”. Bọn trẻ đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. “Đỉa” rượt để bắt. Bọn trẻ lại hát bài hát ghẹo:
Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. “Đỉa” rượt bên này thì bên kia xuống sông. “Đỉa” quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại réo lên: “ăn quả / nhả hạt” rồi ào xuống. Ai lội qua sông không khéo, chẳng may bị “đỉa” bám phải thì trở thành “đỉa”. Cứ thế trò chơi cứ tiếp diễn đến khi nào mệt, xả hơi rồi chuyển sang trò chơi khác. Có rất nhiều trò chơi vui vẻ và thú vị như: Dung dăng dung dẻ, Rồng rắn lên mây, Chơi chuyền đũa, Nu na nu nống, Thìa la thìa lẩy, Bịt mắt bắt dê, Hỏi tuổi, đánh cù (con quay)…
Các trò chơi thường lặp đi lặp lại. Các em chơi rất say mê, vui vẻ và ít khi bỏ cuộc, khác với người lớn thường hay chán. Qua các trò chơi, các em được dịp rèn luyện thân thể và các giác quan cũng như tăng thêm sự sảng khoái, hưng phấn về tinh thần. Có thể nói, đồng dao và các trò chơi dân gian là chất xúc tác, vun đắp tình bạn ngây thơ, trong sáng giữa các em thiếu nhi với nhau thành những ký ức, kỷ niệm đẹp thời thơ ấu mà sau nầy khó có thể quên được.
Kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian của dân tộc ta rất phong phú và đa dạng. Đồng dao và trò chơi dân gian có tác dụng giáo dục thiếu nhi, nhi đồng một cách tự nhiên, có hiệu quả. Ngày nay, cuộc sống văn minh đã sản sinh ra rất nhiều trò chơi mới, hấp dẫn, hiện đại. Nhưng xét kỹ, cho cùng, có một số trò chơi không để lại dấu ấn gì cho người chơi, nhất là đối với trẻ em. Đáng ngại là có rất nhiều trò chơi mang tính kích động bạo lực, xa lạ với bản chất nhân văn, nhân hậu của người Việt phổ biến tràn lan.
Đồng dao và những trò chơi dân gian của trẻ em cần được gìn giữ phát huy, cần được bảo tồn không chỉ trong giảng dạy ở nhà trường mà nên phổ biến, tổ chức cho các em được tiếp cận, vui chơi, ít nhất là trong các dịp lễ hội, bởi đấy là một phần của bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giáo dục thiếu niên, nhi đồng là đối tượng rất nhạy cảm trong sự hình thành nhân cách ở buổi ban đầu.
0 nhận xét: