Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Dấu Ấn Văn Hóa Của Nghề Cá Ở Đồng Tháp Mười

1. Cúng việc lề
Sống trong “vương quốc” của cá đồng nên nghề cá là một trong những nghề lâu đời nhất và gần gũi nhất của người dân Đồng Tháp Mười. Ngay từ những ngày đầu mới định cư, họ đã sớm nhận ra rằng “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, hiểu là thứ nhất khai thác rừng, thứ hai khai thác cá tôm. Con cá gắn bó với người dân đi khai hoang đến mức đã trải qua mấy trăm năm nhưng hôm nay lễ vật cúng việc lề17 của phần lớn các tộc họ ở Đồng Tháp Mười vẫn là cháo ám (cháo cá), cá lóc nướng trui, gỏi cá, mắm (cá) sống, mắm nêm,v.v., tức là đều có yếu tố cá. Nguyễn Hữu Hiếu còn ghi lại được bài thơ “Cổ lệ việc lề” của họ Nguyễn Công ở Cao Lãnh như sau:
…Gỏi ghém đầy đủ canh cơm,
Mắm chưng, rau luộc nhớ đơm mâm này.
Cá lóc một cặp sẵn đầy,
Đánh vẩy cho sạch, vi kì để nguyên.
Khứa tư ra tám khúc liền,
Phân dọn thứ tự nối liền dài ra.
Một con chia cúng trong nhà,
Con nữa nhớ dọn ghế dài ngoài sân…

2. Thờ Đại Càn
Nghề cá gắn bó thiết thân với người dân Đồng Tháp Mười đến nỗi hầu hết các đình làng ở Đồng Tháp Mười ngoài việc thờ Thành hoàng Bổn cảnh còn kết hợp thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần vốn là Phúc Thần của nghề đi biển và được đồng hóa với Ngư Thần bảo hộ nghề đánh cá. Theo sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên biên soạn thời Trần: Năm 1279, quân Mông Cổ đuổi nhà Nam Tống đến tận Nhai Sơn (Quảng Đông). Bốn vị công nương bị sóng gió lật úp thuyền chết đuối, xác trôi dạt vào cửa Cờn ở Nghệ An. Khi dân ta gặp được thì thấy có hai con rái cá chầu hai bên xác của bốn vị này. Dân làng bèn chôn cất tử tế và lập miếu thờ, rất linh ứng. Hai con rái cá cũng được thờ chung với tứ vị thánh nương này. Từ đó tứ vị thánh nương trở thành phúc thần của nghề đi biển và mở rộng ảnh hưởng đến tận Đồng Tháp Mười với tư cách Ngư Thần. Ở Đồng Tháp Mười, Lang lại (hay Lang thát) Nhị đại tướng quân (chính là hai con rái cá) được thờ chung với Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần.

Đến khoảng giữa năm 1846, khu vực các huyện Chợ Gạo, thành phố Mỹ Tho, Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè (tỉnh Tiền Giang) và Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp) hiện nay, mỗi làng được vua Thiệu Trị ưu tiên cấp 2 đạo sắc Bổn cảnh Thành hoàng và 2 đạo sắc Phúc Thần (chính là thần Đại Càn). Điều này thật dễ hiểu bởi vì đây chính là vùng trọng điểm khai thác cá của Đồng Tháp Mười. Thần Đại Càn thường được thờ trong đình, nhưng cá biệt có nơi thờ ở miễu, dân gian quen gọi là miễu Ngư Thần, chẳng hạn ở thôn Mỹ Xương (Cao Lãnh) hay Xóm Đệm (xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang).
3. Lễ cầu ngư
Đây là dạng tín ngưỡng truyền thống của dân Đồng Tháp Mười. Lễ cầu ngư thường được tổ chức váo lúc cao điểm của mùa khai thác cá, tức vào cuối năm, khi nước rút. Một số nơi ở tỉnh Đồng Tháp ngày nay vẫn còn lệ cúng cầu ngư như ở thôn An Phong (huyện Thanh Bình), Phú Thành (huyện Tam Nông), Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh). Lễ cầu ngư thường được tổ chức tại đình (có bài ngư – miếu thờ Ngư Thần) do các hộ chuyên làm nghề cá đóng góp. Lễ này thường được tổ chức trọng thể, có kèm theo múa bóng rổi, thể hiẹn ước vọng mùa cá bội thu. Lễ cầu ngư ngày nay ít được tổ chức vì nghề khai thác cá đã từng bước đi vào thoái trào, trong khi nghề nuôi cá lại áp dụng kiến thức khoa học hiện đại khiến cho niềm tin vào các thế lực siêu nhiên ngày càng không còn chỗ đứng.
4.Qua ngôn ngữ dân gian và các món ăn dân dã
Nghề cá thấm đẫm trong từng câu ca dao, tục ngữ ở Đồng Tháp Mười. Đi đâu cũng gặp cá:
Ai về dưới miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
Hay:
Má ơi con vịt nó chết chìm,
Con thò tay vớt nó, con cá lìm kìm nó cắn con.
Đi đâu cũng gặp dụng cụ bắt cá, đến nỗi người ta có câu chơi chữ để giới thiệu từng món:
Hỡi chú Đăng, chú đi đâu đó,
Con mắt chú lờ chú đạp lọp của tui.
Và đây là cảnh cả nhà cùng làm nghề cá:
Cha chài, mẹ lưới, con câu,
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.
Chính vì thế mà con cá như có tình với con người, như giao cảm được vối con người:
Anh ngồi bực lở anh câu,
Khen ai kheo mách, cá sầu chẳng ăn.
Và con người cũng như giao cảm được với tâm tư của con cá:
Cá không ăn câu là cá dại,
Cá ăn rồi nghĩ lại cá ngu.
Hay:
Thân em như cá trong lờ,
Hết phương vùng vẫy, không biết nhờ nơi đâu.
Rồi những nỗi nhớ nhung sầu muộn cũng gắn liền với nghề cá:
Anh đi ghe cá trảng son,
Để em đươn đệm cho mòn ngón tay.
Cá ở Đồng Tháp Mười được chế biến thành rất nhiều món, nhưng món có thể để dành lâu nhất (và do đó cũng phổ biến nhất) chính là mắm. “Đất Gia Định nhiều sông hồ, đầm bãi, cứ 10 người thì có đến 9 người thạo chở thuyền, biết bơi lội, thích ăn mặn. Có người ăn vã hai thùng mắm đến hơn 20 cân20, chỉ ăn một bữa là hết, để làm trò đánh đố”.Ở Đồng Tháp Mười có rất nhiều loại mắm như: mắm nêm, mắm phệt, mắm ruốc, mắm ruột… Trong các loại này thì mắm nêm là thứ gia vị bắt buộc trong bữa ăn thời xưa, vì nó đóng vai trò như bột ngọt ngày nay, được dùng nêm vào thức ăn để tạo vị ngọt và mùi thơm ngát.
Cách ăn mắm cũng rất phong phú: ăn sống (mắm sống), hấp cách thủy (mắm chưng), kho (mắm kho) hoặc pha trộn thập cẩm (mắm Thái)… Do đó, có thể nói ở Đồng Tháp Mười đã hình thành văn hóa mắm. Dân nghèo lấy mắm làm thực phẩm chính trong bữa ăn, gọi là “ăn mắm mút giồi”. Mắm thường rất mặn nên người ăn phải biết độ lượng gắp vừa phải, bởi nếu ăn nhiều thì sau đó sẽ rất khát nước, thế là họ rút ra bài học sống: “Liệu cơm gắp mắm”. Và từ bài học trong việc ăn uống, nó trở thành bài học quý báu trong cuộc sống thường ngày. Mắm là loại thức ăn xoàng xĩnh của người bình dân nên người ăn mắm được xem là kém sang trọng, hạ lưu; cho nên một khi ai đó nói những điều xúi quẩy thì thường bị mắng: “Đồ cái miệng ăn mắm ăn muối!”.
Ngoài ra, ở Đồng Tháp Mười còn có món cá nướng trui rất đơn giản mà độc đáo. Cá nướng trui thường là các loại cá có vảy như cá lóc hoặc cá rô. Người ta xỏ một cành cây nhỏ từ miệng cá xuyên thẳng về phía sau, cắm thẳng đứng xuống đất rồi dùng rơm rắc lên một lớp vừa phải và đốt. Chẳng mấy chốc đã có được con cá nướng thơm nức, thịt ngọt, da giòn và có vị hơi mặn của lớp da cháy sém. Cá nướng trui từ lâu đời đã trở thành món ăn thường ngày của những người đi khai phá Đồng Tháp Mười . Chính vì vậy mà nó trở thành thứ lễ vật không thể thiếu trong nhiều lễ cúng việc lề của các dòng họ lớn ở vùng này.
Nghề cá đã đi sâu vào đời sống của người dân Đồng Tháp Mười từ bao đời nay, trở thành một bộ phận hữu cơ trong sinh hoạt hằng ngày của họ. Chính nghề cá đã góp phần tạo động lực trực tiếp cho công cuộc khai khẩn Đồng Tháp Mười. “Ăn cơm mắm, thấm về lâu” (Tục ngữ). Cá, mắm, khô là nguồn lương thực dồi dào làm no lòng những người đi khai hoang buổi đầu và cũng làm nên cá tính hào phóng của họ. “Chim trời cá nước” bao la tạo cho con người Đồng Tháp Mười bản tính rộng rãi, hiếu khách và thích sống hòa mình cùng thiên nhiên.

0 nhận xét:

Bài Viết Cùng Chủ Đề

© 2015 Hai Lúa Miền Tây | Design by Tùng Phạm
| Design by Tùng Phạm.